CHUYÊN MỤC








Trang chủ > Hỏi đáp Pháp luật Kỳ 1 - Tháng 9/2020

Hỏi đáp Pháp luật Kỳ 1 - Tháng 9/2020

Ngày đăng bài: 04/09/2020
Một số quy định pháp luật về dân sự
Câu 1: Nghĩa vụ trả nợ
Bạn của tôi có vay tiền tín dụng bên FE và đã lấy số điện thoại của tôi cho vào hồ sơ vay. Hiện tại, bạn tôi đã trễ trả góp hơn một tháng, bên công ty FE có gọi điện cho tôi và tôi đã bảo là tôi không liên lạc được với bạn. Bên FE bắt tôi phải trả hộ tiền cho bạn nhưng tôi chỉ là bạn đồng nghiệp, không liên quan đến khoản tiền vay, không phải người thân, tôi còn phải lo cho gia đình tôi. Bên họ còn nhắn tin uy hiếp sẽ đăng thông tin cá nhân của tôi lên mạng xã hội. Tôi muốn hỏi, tôi có nghĩa vụ phải trả thay trong trường hợp này không? Nếu như bên FE đăng thông tin của tôi lên mạng xã hội làm xấu danh dự, nhân phẩm, uy tín của tôi thì tôi có kiện được không?
          Trả lời:
1. Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau:
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Theo các quy định nêu trên thì bên vay tiền có nghĩa vụ phải trả đủ tiền khi đến hạn. Đối chiếu với trường hợp bạn nêu, đồng nghiệp của bạn vay tiền tín dụng của công ty FE và sử dụng thông tin số điện thoại của bạn để ghi vào hồ sơ vay, như vậy, đồng nghiệp của bạn là bên vay tài sản, do đó, người có nghĩa vụ phải trả đủ tiền cho công ty FE khi đến hạn là đồng nghiệp của bạn. Việc đồng nghiệp sử dụng thông tin số điện thoại của bạn để ghi vào hồ sơ vay tiền của người đó sẽ không làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ của bạn đối với khoản vay nói trên.
2. Khoản 1 Điều 21 Hiến pháp năm 2013 quy định như sau:
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình”.
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 34 BLDS năm 2015 quy định:
1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”.
Như vậy, theo các quy định nêu trên, cá nhân có quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín. Việc công ty FE đăng thông tin của bạn lên mạng xã hội để xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín được xem là xâm phạm đến quyền  được bảo vệ đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bạn.
Điều 11 BLDS năm 2015 quy định: “Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
1. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình.
2. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.
3. Buộc xin lỗi, cải chính công khai.
4. Buộc thực hiện nghĩa vụ.
5. Buộc bồi thường thiệt hại.
6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
7. Yêu cầu khác theo quy định của luật”.
Mặt khác, khoản 2, khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 34 BLDS năm 2015 quy định:
“2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.
5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại”.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, trong trường hợp công ty FE đăng thông tin của bạn lên mạng xã hội để xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của bạn thì ngoài các quyền tự bảo vệ như: yêu cầu công ty FE bác bỏ thông tin xâm phạm, yêu cầu công ty FE xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại…, thì bạn còn có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình, yêu cầu Tóa án buộc công ty FE xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại (nếu có).
 Câu 2: Thỏa thuận phân chia di sản
Vợ chồng A và B có 03 người con là C, D và E. Tại thời điểm chia thừa kế di sản của C thì người cha là A đã chết. Lúc chết, C và A đều không để lại di chúc. C không có vợ, con, con nuôi, cha mẹ nuôi. A không còn cha mẹ đẻ, không có con nuôi, cha mẹ nuôi. Vậy, trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của C thì có phải đưa D và E vào hay không?
Trả lời
1. C và A chết đều không để lại di chúc, do vậy, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015, di sản của C và A sẽ được phân chia theo pháp luật.
Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Như vậy, căn cứ vào quy định trên và căn cứ Điều 613 Bộ luật dân sự năm 2015, đối chiếu với trường hợp đã nêu thì những người thừa kế theo pháp luật của C bao gồm: A và B; những người thừa kế theo pháp luật của A bao gồm: B, D và E. Tại thời điểm chia di sản thừa kế của C thì A chết. Do đó, đối với phần di sản lẽ ra A được hưởng do C để lại sẽ được chia cho B, D và E.
2. Điều 656 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây:
a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b) Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”.
Căn cứ vào quy định nêu trên, những người thừa kế di sản có thể họp mặt để thỏa thuận về việc cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; cách thức phân chia di sản. Việc thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.
Đối chiếu quy định trên với trường hợp đã nêu, những người được hưởng thừa kế di sản của C để lại bao gồm B, D và E có thể họp mặt để thỏa thuận về việc phân chia di sản và việc thỏa thuận đó phải được lập thành văn bản. Hay nói cách khác, trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của C cần có sự đồng ý đồng thời của B, D và E.
Câu 3: Chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người hưởng di sản
Ba, mẹ tôi là ông Tuấn và bà Lan, sinh thời có 02 người con là Bảo và Nam. Ba mẹ tôi đã chết năm 1970, không để lại di chúc, di sản thừa kế để lại là một diện tích đất 500m2. Anh tôi là ông Bảo đã chết từ năm 2000, vợ của Bảo là bà Thúy chết năm 2013. Anh trai tôi có 02 người con là cháu Thanh và Quyết. Hiện nay, tôi là Nam, là người quản lý sử dụng di sản. Hàng thừa kế thứ nhất hiện nay chỉ còn tôi cùng 02 cháu là Thanh và Quyết. Tôi cùng các cháu muốn phân chia di sản. Các cháu đồng thuận để lại toàn bộ di sản cho tôi và muốn làm văn bản từ chối nhận thừa kế. Tuy nhiên, vướng mắc lớn nhất là ngày xưa, ba mẹ không làm giấy khai sinh cho anh tôi. Thực tế lại đặt họ cho anh khác họ  của cha, mẹ (cha, mẹ tôi và tôi đều là họ Trần, anh trai tôi họ Nguyễn Bảo). Chúng tôi đã đến các cơ quan có thẩm quyền (UBND xã, huyện nơi có hộ khẩu của anh tôi, UBND xã, huyện nơi có hộ khẩu của ba, mẹ tôi, Công an phường, công an huyện nơi làm hộ khẩu của anh trai tôi và ba mẹ tôi) nhưng không trích lục được bất cứ giấy tờ nào thể hiện quan hệ nhân thân giữa 02 cháu Thanh và Quyết với ba, mẹ tôi. Do đó, Văn phòng công chứng đã từ chối việc công chứng văn bản từ chối nhận di sản. Vậy, gia đình tôi phải làm thế nào để chứng minh quan hệ giữa 02 cháu Thanh và Quyết với ba, mẹ tôi?
Trả lời:
 Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản”.
Điều 59 Luật Công chứng năm 2014 quy định:
“Người thừa kế có thể yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản. Khi yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản, người yêu cầu công chứng phải xuất trình bản sao di chúc trong trường hợp thừa kế theo di chúc hoặc giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người yêu cầu công chứng theo pháp luật về thừa kế; giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác chứng minh người để lại di sản đã chết”.
Như vậy, theo các quy định nêu trên, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm mục đích trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, có công chứng khi người thừa kế yêu cầu. Một trong những giấy tờ cần phải nộp khi yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản là giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người yêu cầu công chứng theo pháp luật về thừa kế.
Đối chiếu với trường hợp của bác, ba, mẹ bác chết không để lại di chúc, do vậy, việc chia di sản thừa kế đối với diện tích đất 500m2 sẽ được thực hiện chia theo pháp luật. Hiện nay, những người thừa kế di sản của ba, mẹ bác theo pháp luật gồm có bác và 02 người cháu là Thanh và Quyết. 02 người cháu từ chối nhận di sản nói trên, việc từ chối cũng đã được thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên, họ của anh trai bác được xác định không theo họ của bố hoặc mẹ bác, anh trai bác cũng không có giấy khai sinh để thể hiện quan hệ cha con, mẹ con với ba, mẹ bác. Đối với trường hợp này, người yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản (cháu Thanh và Quyết) có thể cung cấp cho công chứng viên giấy tờ thay thế khác để chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và được thừa kế như: Sổ hộ khẩu gia đình (trong trường hợp sổ hộ khẩu có thể hiện quan hệ giữa ba, mẹ bác với cháu Thanh và Quyết) hoặc Sơ yếu lý lịch Đảng viên có xác nhận của tổ chức Đảng hoặc Sơ yếu lý lịch cán bộ, công chức có xác nhận của cơ quan hoặc Sơ yếu lý lịch cá nhân có xác nhận của UBND cấp xã,… Sau khi cung cấp được giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người yêu cầu công chứng theo pháp luật về thừa kế; giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác chứng minh người để lại di sản đã chết thì Văn phòng công chứng sẽ thực hiện việc công chứng văn bản từ chối nhận di sản theo quy định của pháp luật.


Cơ quan: UBND huyện Đak Pơ tỉnh Gia Lai
Địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn Đak Pơ, huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai
Điện thoại: (0269) 3 738 275
Email: ubnddakpo@gialai.gov.vn
Fax: (0269) 3 738 275
Chung nhan Tin Nhiem Mang