Trang chủ > Giới thiệu > Thành tựu giai đoạn 2010 - 2015
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, hoạt động chỉ đạo điều hành có hiệu quả của UBND, công tác phối hợp tuyên truyền của Ủy ban Mặt trận tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương, trong nhiệm kỳ qua các chỉ tiêu trọng tâm về phát triển kinh tế - xã hội đã đạt được những kết quả khả quan so với NQ đề ra:
1. Về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế :
- Tốc độ tăng trưởng bình quân:
Trong nhiệm kỳ vừa qua tình hình kinh tế vẫn duy trì phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 8,13%; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, song nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu nhập toàn xã hội với 43,54%, công nghiệp - xây dựng là 35,84%; thương mại, dịch vụ là 20,62%. Thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2019 ước đạt 38,09 triệu đồng.
Công tác thu ngân sách trên địa bàn hằng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch, bảo đảm cho công tác chi thường xuyên, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ chính trị và hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương. Tổng thu ngân sách trên địa bàn cả nhiệm kỳ 6.270,35 triệu đồng (năm 2019 ước đạt 1.470 triệu đồng), bình quân tỷ lệ thu ngân sách hàng năm đạt 112,7% so NQ. Tỷ lệ huy động các khoản quỹ ở địa phương đạt chỉ tiêu kế hoạch. Chi ngân sách được quản lý chặt chẽ, tiết kiệm, thực hiện theo đúng quy định, tổng chi ngân sách nhiệm kỳ 26.986,35 triệu đồng, đạt 100% kế hoạch giao.
-Về thực hiện mục tiêu chuyển đổi mô hình sản xuất: Trong những năm qua sản xuất nông nghiệp tuy còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của diễn biến thời tiết, khí hậu bất thường, giá cả hàng nông sản bấp bênh, để thực hiện đạt chỉ tiêu kế hoạch của huyện và Nghị quyết giao, UBND thị trấn tập trung chỉ đạo nhân dân phát triển kinh tế theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với tình hình đất đai khí hậu thổ nhưỡng ở địa phương, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất thâm canh tăng vụ tăng năng  suất, đưa các loại giống cây trồng cho năng suất cao, hình thành dần các vùng chuyên canh cây mía, mỳ, rau màu các loại,... Nhờ vậy, tổng diện tích gieo trồng hàng năm đều đạt vượt so với NQ, tính đến cuối năm 2019 tổng diện tích gieo trồng 2.001 ha, đạt 117,71% Nghị quyết.
Công tác đầu tư công nghệ vào thâm canh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất ngày càng được người dân quan tâm và được các ngành chuyên môn cấp trên hướng dẫn, tổ chức nhiều cuộc hội thảo đầu bờ, tập huấn công tác khuyến nông. Từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tỷ lệ sử dụng cơ giới hóa vào sản xuất ngày càng cao, giảm được lượng lao động đáng kể, năng suất cây trồng ổn định và tăng lên.
- Sản xuất nông, lâm nghiệp:
Thực hiện chỉ tiêu kế hoạch, nghị quyết giao hàng năm, với đặc điểm tình hình đất đai của địa phương, có hơn 68,7% dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi, hình thành vùng chuyên canh các loại cây trồng như mía, mỳ, rau xanh các loại…. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được các ngành chuyên môn quan tâm hướng dẫn, đã tổ chức nhiều đợt tập huấn công tác khuyến nông, hội thảo đầu bờ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, kỹ thuật chăm sóc cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, công tác phòng ngừa các loại bệnh hại ở cây trồng luôn được quan tâm triển khai, nhờ đó diện tích gieo trồng, năng suất, sản lượng cây trồng luôn đạt và vượt kế hoạch đề ra. Tổng sản lượng lương thực có hạt trong nhiệm kỳ 4.320 tấn, bình quân đạt 864 tấn/năm, đạt 101,6% nghị quyết.
Trong chăn nuôi, luôn chú trọng đến công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm; thường xuyên tổ chức vệ sinh tiêu độc, khử trùng, tiêm văcxin phòng dịch và hướng dẫn cho nhân dân cách phòng chống, điều trị các dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, kiểm tra nhắc nhở các điểm giết mổ gia súc, không được vứt xác vật nuôi ốm chết gây nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Khuyến khích người dân áp dụng thực hiện có hiệu quả các dự án lai cải tạo đàn bò, nạc hóa đàn heo để nâng cao sản phẩm thu hoạch từ chăn nuôi. Hiện nay đang dần khuyến khích phát triển mô hình trang trại mang lại thu nhập ổn định cho hộ chăn nuôi.
Tình hình chăn nuôi được duy trì phát triển ổn định, công tác phòng ngừa dịch, bệnh trên đàn vật nuôi được triển khai kịp thời, không xảy ra dịch, tính đến nay tổng đàn bò có 1.349 con đạt 110,6%NQ, tỷ lệ bò lai chiếm 98,7% tổng đàn, tăng 0,2% so NQ. Số con đàn gia súc, gia cầm hiện đang có chiều hướng giảm, nguyên nhân một phần do diện tích trồng trọt hàng năm tăng, diện tích đồng cỏ giảm, giá sản phẩm chăn nuôi lên xuống bấp bênh, giá thức ăn chăn nuôi còn cao, tình hình dịch bệnh có thể xảy ra bất thường gây tâm lý e ngại cho người dân, do đó giảm dần số lượng đàn vật nuôi.
Công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng, chống cháy rừng được triển khai và kiểm tra thường xuyên, việc vận động nhân dân chăm sóc, phát triển tốt số diện tích rừng trồng trên địa bàn, tuyên truyền luật bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng được lồng ghép vào các buổi họp khu dân cư. Tổng diện tích rừng trồng trên địa bàn thị trấn là 61,75ha (Trong đó: Hộ gia đình là 43,09 ha; tổ chức 18,66 ha).
-  Về công nghiệp, thương mại dịch vụ
Ngành tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ có bước phát triển; các sản phẩm hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng, tăng về số lượng, chất lượng và chủng loại, tạo ra được nhiều loại sản phẩm nông nghiệp có giá trị tham gia tại các đợt lễ hội, phiên chợ nông sản. Trong những năm qua, địa phương luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát triển các loại hình dịch vụ kinh doanh, buôn bán các mặt hàng thiết yếu, góp phần phục vụ tốt nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong đó khuyến khích các loại hàng hóa như: vật tư nông nghiệp, gia công cơ khí, vật liệu xây dựng, điện tử... Hiện nay, trên địa bàn có 235 cơ sở sản xuất kinh doanh buôn bán và kinh doanh dịch vụ, vận tải, Tổng giá trị thu nhập tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải đạt 107,9 tỷ đồng.
- Xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, quản lý đô thị
Bằng các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và nhân dân đóng góp, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, thị trấn đã triển khai thực hiện với số vốn là 7,97 tỷ đồng, trong đó: làm mới 3,53km đường BTXM; tu sửa cống thoát nước và 450m đường BTXM; tu sửa 45,89km đường giao thông nội đồng, cấp phối; làm mới 4.602m2 sân BTXM nhà sinh hoạt cộng đồng, trụ sở văn hóa, mở rộng Trung tâm thương mại huyện; lắp đặt hệ thống nước sinh hoạt, mở rộng mạng lưới điện chiếu sáng. Xây dựng mới và tu sửa các công trình cầu, cống thoát nước, mương thủy lợi phục vụ dân sinh và sản xuất. Đến nay, hệ thống đường giao thông được hoàn thiện, kết cấu hạ tầng trên địa bàn được đầu tư xây dựng với tốc độ nhanh, đảm bảo đáp ứng cơ bản các tiêu chí của một thị trấn theo quy định.
Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng điện vào mục đích sinh hoạt đạt 100% so với Nghị quyết. Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển, 100% số hộ được sử dụng phương tiện nghe nhìn, số hộ sử dụng điện thoại, internet ngày càng tăng, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Thực hiện tốt công tác quản lý và sử dụng đất đai, xây dựng theo đúng quy định của Pháp luật, đảm bảo theo quy hoạch được phê duyệt. Từng bước triển khai tốt công tác bảo vệ tài nguyên đất đai, nguồn nước, môi trường sống, hướng dẫn và vận động nhân dân xử lý rác thải đúng theo quy định góp phần đảm bảo cảnh quan đô thị.
Nhìn chung công tác quản lý đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng trong nhiệm kỳ qua được UBND thị trấn đặc biệt quan tâm chú trọng đề ra các giải pháp, tăng cường kiểm tra, quản lý nhằm kịp thời xử lý, nhắc nhở khắc phục và hướng dẫn người dân chấp hành tốt các quy định về xây dựng và sử dụng đất đúng mục đích.
- Thực hiện nhiệm vụ về xây dựng “Thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”
Năm 2017 UBND thị trấn xây dựng đề án triển khai thực hiện, qua đó xây dựng kế hoạch, đề ra các giải pháp, nhiệm vụ cho từng năm, tích cực tổ chức triển khai thực hiện các tiêu chí về đô thị văn minh và đạt được nhiều kết quả: công tác quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị được đảm bảo; phong trào “TDĐKXDĐSVH” ở khu dân cư tiếp tục có nhiều đổi mới, tiến bộ; kinh tế tiếp tục đà tăng trưởng ổn định, thu nhập bình quân đầu người tăng cao hơn so với các năm trước đây; phong trào văn nghệ, tập luyện thể dục thể thao ngày càng được nhiều người dân tham gia hưởng ứng; công tác vệ sinh môi trường, cảnh quan đô thị có nhiều chuyển biến tích cực, sạch sẽ; ý thức chấp hành pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao; tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương đảm bảo ổn định. Như vậy, tính đến nay kết quả thị trấn đã đạt 19/24 tiêu chí so quy định về chuẩn văn minh đô thị.
2. Lĩnh vực văn hóa xã hội
2.1 Về công tác giáo dục - đào tạo
Chất lượng giáo dục tiếp tục được duy trì phát triển ổn định, đảm bảo yêu cầu ngành đặt ra; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được quan tâm đầu tư nâng cấp cơ bản đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học; đội ngũ giáo viên dần được chuẩn hóa đạt chuẩn và trên chuẩn, công tác xã hội hóa giáo dục được chính quyền và nhân dân quan tâm đã phát huy sự kết hợp giữa 3 môi trường giáo dục là nhà trường, gia đình và xã hội nên chất lượng dạy và học được nâng lên rõ rệt, số học sinh giỏi và giáo viên giỏi các cấp không ngừng tăng lên. Hiện nay, thị trấn có 3/3 trường đạt chuẩn quốc gia; Tổng số CBGVNV 81 người, tổng số học sinh các cấp là 1.329 học sinh (tăng 93 em so đầu nhiệm kỳ). Tỷ lệ huy động trẻ em đúng độ tuổi đến lớp hằng năm đạt 100%; tỷ lệ duy trì sĩ số học sinh đạt 99,7%; tỷ lệ học sinh hoàn thành bậc tiểu học và tốt nghiệp bậc THCS hằng năm đạt 100%; duy trì tốt kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục THCS và giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi. Song song với thực hiện nhiệm vụ đào tạo kiến thức văn hóa, thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội cho các em học sinh; Công tác an ninh học đường được địa phương và nhà trường quan tâm, trong những năm qua không có học sinh vi phạm pháp luật, không có ma tuý và tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường. Thường xuyên kiểm tra, quán triệt, chấn chỉnh việc tổ chức dạy thêm, học thêm theo quy định.
2.2 Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân
Chỉ đạo thực hiện tốt công tác y tế và các chương trình y tế Quốc gia, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Trạm Y tế thị trấn được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, có 05 cán bộ, nhân viên cơ bản đáp ứng nhu cầu bảo đảm việc sơ cấp cứu, khám và cấp phát thuốc cho nhân dân. Cộng tác viên y tế tổ dân phố, làng được củng cố và thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả. Thường xuyên đẩy mạnh các hoạt động phòng, chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn. Công tác tiêm chủng cho trẻ em trong độ tuổi đạt kết quả cao; số trẻ em suy dinh dưỡng giảm qua các năm, đến cuối năm 2019 tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD có 52 em, chiếm tỷ lệ 11,98% vượt 1,98% so NQ. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 86,7% (đạt vượt 1,7% so NQ).
Tổ chức thực hiện tốt các chiến dịch chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Pháp lệnh dân số, đã hạn chế tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên. Hiện nay, tổng số hộ dân 1.470 hộ, 5.385 khẩu, trong đó DTTS 344 hộ, 1.385 khẩu. Tỷ lệ tăng dân số bình quân hằng năm 1,67%, tăng tự nhiên là 1,15%, tăng 0,1% so với Nghị quyết.
2.3 Văn hóa thông tin, thể dục thể thao
Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao tiếp tục chuyển biến tích cực, góp phần vào việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Thường xuyên tổ chức và tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao do các cấp tổ chức, đơn vị kết nghĩa và địa phương tổ chức, từng bước đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân; phong trào quần chúng tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục – thể thao diễn ra sôi nổi.
Triển khai sâu rộng trong quần chúng nhân dân cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đến nay, toàn thị trấn có 1.200 hộ gia đình đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”, chiếm 83,2% dân số toàn thị trấn, tăng 5,3% so đầu nhiệm kỳ; đã có 6/7 tổ dân phố, làng đạt danh hiệu “khu dân cư văn hóa”. Nhìn chung, các hoạt động văn hoá thông tin - thể dục thể thao trong những năm qua đã phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, nâng cao chất lượng cuộc sống, sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn.
2.4. Thực hiện chính sách - xã hội
Công tác cứu đói, hỗ trợ cho người nghèo, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách, xã hội tiếp tục được quan tâm triển khai có hiệu quả; Công tác giảm nghèo được triển khai đồng bộ và có hiệu quả, năm 2015 đạt 8,39%, đến cuối năm 2019 ước thực hiện được 8,18%, giảm 0,21% so với đầu nhiệm kỳ, tăng 3,18% so với Nghị quyết. Công tác tập huấn, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động được quan tâm. Các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, chăm sóc người cao tuổi luôn được triển khai thực hiện. Các chế độ, chính sách cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định.
Tập trung huy động nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các làng đồng bào DTTS như: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, Chương trình 135, 167, hỗ trợ điện, nước sinh hoạt, cùng với sự quan tâm của địa phương và cộng đồng dân cư, từ các nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước, các chính sách khác nên nhiều hộ gia đình đã phát triển sản xuất vươn lên làm giàu chính đáng bằng sức lao động của mình, thoát nghèo bền vững.
Công tác dân tộc - tôn giáo luôn được quan tâm nên đã tạo được sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư và niềm tin trong nhân dân. Đồng thời, tăng cường phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền, vận động giáo dân tham gia sinh hoạt tôn giáo đúng quy định của pháp luật.
3. Về Quốc phòng – An ninh
3.1 Công tác Quốc phòng – Quân sự địa phương
Hàng năm Đảng ủy đều xây dựng Nghị quyết chuyên đề nhiệm vụ Quốc phòng - công tác quân sự địa phương. Lãnh đạo thực hiện tốt các kế hoạch đã đề ra, bảo đảm chế độ trực gác, trực sẵn sàng chiến đấu; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt 2,54% dân số, tăng 0,44% so nghị quyết; tổ chức huấn luyện cho dân quân theo Chỉ thị của cấp trên hàng năm đều đạt khá. Làm tốt công tác tuyển quân hàng năm đảm bảo giao quân đạt 100% chỉ tiêu giao. Quản lý tốt lực lượng dự bị động viên, đăng ký, quản lý đầy đủ nguồn dự bị động viên ở địa phương, biên chế lực lượng sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ khi có lệnh. Làm tốt công tác trực chiến, công tác bảo quản vũ khí, quân trang, quân dụng. Thực hiện tốt hoạt động phối hợp giữa công an và quân sự trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH trong tình hình mới. Hoàn thành tốt công tác diễn tập chiến đấu phòng thủ, kết quả đạt loại khá.
3.2 Công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
An ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cơ bản được giữ vững. Thực hiện tốt công tác phối hợp tuần tra kiểm soát, tuyên truyền phổ biến pháp luật và phát động phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc”, “Diễn đàn công an lắng nghe ý kiến nhân dân”. Từ đó đã phát huy vai trò của nhân dân trong công tác phòng, chống tội phạm, các vụ vi phạm pháp luật giảm qua các năm. Công tác tuần tra đảm bảo trật tự an toàn giao thông và tuyên truyền việc thực hiện Luật GTĐB được triển khai thường xuyên.
Tình hình an ninh nông thôn luôn ổn định, giữ vững, tổ chức cho các tổ dân phố, làng, nhân dân đăng ký cam kết thực hiện các mô hình đảm bảo an toàn về an ninh trật tự, an toàn giao thông, không vi phạm tệ nạn xã hội từ đó hạn chế được số vụ vi phạm pháp luật, an ninh chính trị được giữ vững, vi phạm trật tự xã hội được hạn chế. 7/7 tổ dân phố, làng, thị trấn hằng năm đều được công nhận đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh trật tự”; các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn giao thông, tạm trú, tạm vắng trên địa bàn được tăng cường; các tranh chấp, mẫu thuẫn phát sinh trong nhân dân và đơn thư phản ánh kiến nghị được quan tâm giải quyết kịp thời, thỏa đáng.
Tình hình hoạt động của các giáo dân trên địa bàn thị trấn ổn định, chấp hành tốt các quy định pháp luật ở địa phương.
3.3 Về thực hiện tuyên truyền pháp luật
Trong nhiệm kỳ công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ kinh tế chính trị của địa phương luôn được quan tâm thực hiện bằng nhiều hình thức, dưới hình thức trực quan như là treo Panô, áp phích, băng rôn khẩu hiệu hoặc dưới hình thức trực tiếp bằng tuyên tuyền miệng thông qua các buổi sinh hoạt “ngày pháp luật” định kỳ hàng tháng, quý, năm và thông qua các buổi tuyên truyền lưu động, sinh hoạt hội họp định kỳ của khu dân cư; có sự phân công CBCC tham gia sinh hoạt, hội họp cùng khu dân cư để  kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, kịp thời giải quyết thắc mắc, kiến nghị của nhân dân. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, phối hợp cùng Mặt trận, đoàn thể tổ chức được 137 cuộc tuyên truyền với 15.824 lượt người tham dự; tổ chức được 13 buổi sinh hoạt “ngày pháp luật” với 1.248 người tham gia, tập trung phổ biến các nội dung cơ bản như: Hiến pháp, Luật dân sự, Luật đất đai môi trường, xây dựng, xử lý VPHC, chế độ chính sách xã hội, chăn nuôi, trồng trọt, thuế, bình đẳng giới, hộ tịch, chứng thực, hôn nhân và gia đình, dân tộc – tôn giáo, quốc phòng quân sự, ANCT-ATGT, tiết kiệm chống lãng phí, phòng chống tham nhũng,... và các văn bản pháp luật quy định nghiệp vụ chuyên môn, văn bản pháp luật về kỷ cương, kỷ luật, đạo đức công vụ cuả CBCC, quyền và nghĩa vụ của công dân. Cấp phát 1.227 tờ rơi, tờ gấp tài liệu tuyên truyền phổ biến pháp luật.
3.4 Công tác cải cách hành chính, tiếp công dân
Công tác cải cách hành chính:
Công tác lãnh đạo, điều hành thực hiện cải cách hành chính được quan tâm, sâu sát hơn trước, bước đầu đạt được những kết quả tốt; nhận thức của CBCC và người dân về công tác CCHC đã có chuyển biến rõ nét. Việc quản lý, đào tạo, bồi dưỡng CBCC tiếp tục được cải tiến đã góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thái độ ứng xử, tinh thần trách nhiệm, hiệu quả sử dụng thời giờ làm việc,... của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, nhiệm vụ.
Duy trì, áp dụng hiệu quả hệ thống QLCL theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008, Hệ thống “Một cửa điện tử”; quan tâm đầu tư kinh phí sửa chữa, nâng cấp máy móc, các trang thiết bị; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý hành chính; thực hiện tốt việc chỉ đạo, điều hành, gửi, nhận, xử lý văn bản qua Hệ thống quản lý văn bản và điều hành.
Việc thực hiện TTHC đã được UBND thị trấn thường xuyên chỉ đạo, quan tâm công tác cải cách TTHC, các TTHC được công khai đầy đủ theo quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận, tìm hiểu. Các TTHC được giải quyết đúng thời gian, đúng quy định, đúng trình tự thủ tục chiếm tỷ lệ cao. Công tác kiểm soát TTHC đã thực hiện đúng theo quy định Thông tư số 02/2017/TT-VPCP, đã rà soát, cập nhật, niêm yết, công khai kịp thời các TTHC mới ban hành, sửa đổi bổ sung do UBND tỉnh ban hành.
Việc tổ chức triển khai thực hiện cơ chế một cửa liên thông đã thay đổi về chất lượng hoạt động giải quyết thủ tục hành chính. Nhiệm vụ trọng tâm này đã góp phần đột phá trong cải cách hành chính, giảm giấy tờ, rút ngắn thời gian giải quyết, tiết kiệm chi phí tạo thuận lợi cho người dân khi thực hiện các TTHC, đồng thời từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ công, phục vụ tốt hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch, cư trú, bảo hiểm y tế trên địa bàn thị trấn. Việc công khai TTHC tạo cơ sở thuận lợi cho cơ chế giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
Công tác cải cách hành chính tại UBND thị trấn Đak Pơ được triển khai thực hiện đồng bộ trên tất cả các nội dung, cụ thể như: trong công tác văn thư, lưu trữ, ứng dụng công nghệ thông tin, trong quy trình tiếp nhận xử lý, soạn thảo ký, ban hành văn bản, trong kiểm soát đơn giản hóa TTHC và trong công tác lãnh đạo chỉ đạo điều hành…; công tác tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật được quan tâm, chú trọng bằng nhiều hình thức như thông qua các cuộc sinh hoạt hội họp, gửi trực tiếp bằng bản sao hoặc qua hệ thống mạng nội bộ đến các tổ chức, cá nhân, bộ phận chuyên môn có liên quan. Công tác cải cách hành chính đang từng bước góp phần tích cực vào việc giảm bớt phiền hà trong giải quyết công việc của công dân, tổ chức, tiết kiệm trong chi phí quản lý hành chính, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Thực hiện các văn bản, ý kiến chỉ đạo của cấp trên, UBND thị trấn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt cơ chế một cửa đúng theo quy định, không để xảy ra tình trạng tồn đọng hồ sơ, khiếu nại về thủ tục hành chính. Rà soát, niêm yết công khai đầy đủ các thủ tục hành chính tại bộ phận một cửa theo quy định. Phân công, nhắc nhở, đôn đốc cán bộ, công chức chuyên môn làm việc tại bộ phận một cửa tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ chủ động kịp thời giải quyết đúng hẹn, không có tình trạng chậm trễ, tồn đọng kéo dài. Qua đó dần nâng cao chất lượng hoạt động cơ chế một cửa, giải quyết thủ tục hành chính; đội ngũ cán bộ, công chức có trách nhiệm hơn về chức trách nhiệm vụ được giao, không có thái độ hách dịch, tham ô gây phiền hà cho nhân dân và các tổ chức khi đến liên hệ giải quyết công việc.
Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo: Duy trì thực hiện việc tiếp công dân theo đúng Luật Tiếp công dân. Trong nhiệm kỳ, thực hiện việc tiếp công dân thường xuyên tại trụ sở UBND thị trấn: 31 lượt các ý kiến liên quan đến lĩnh vực đất đai, dân sự, các lượt ý kiến được UBND thị trấn tiếp nhận, tiến hành xác minh thông tin, hiện trạng thực tế các vụ việc phản ánh, kiến nghị và đã hướng dẫn, tổ chức hòa giải, giải quyết xong kịp thời; Tiếp nhận, thụ lý giải quyết 34 đơn thư phản ánh, kiến nghị liên quan đến đất đai, dân sự, đã giải quyết xong. Thực hiện tốt công tác hòa giải, kịp thời giải quyết dứt điểm các đơn thư tranh chấp, phản ánh, kiến nghị của công dân ngay từ cơ sở, không có tình trạng khiếu kiện phức tạp động người, kéo dài vượt cấp xảy ra. Nhờ vậy góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với chính quyền, ổn định trật tự - xã hội, phát huy đoàn kết, dân chủ trong cộng đồng.
Về tổ chức chỉ đạo và thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí: UBND thị trấn xác định công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và lâu dài; các văn bản, ý kiến chỉ đạo các cấp có liên quan thường xuyên được lồng ghép quán triệt, phổ biến, tuyên truyền trực tiếp thông qua các buổi sinh hoạt, hội họp đến toàn thể cán bộ, công chức thị trấn nêu cao tinh thần trách nhiệm, kiên quyết đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, nâng cao nhận thức ý thức về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, không để xảy ra vi phạm. Nhờ làm tốt công tác kiểm tra, giám sát nên đầu nhiệm kỳ đến nay không có trường hợp cán bộ, công chức vi phạm phải kỷ luật, xử lý.

Cơ quan: Huyện Đak Pơ tỉnh Gia Lai
Địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn Đak Pơ, huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai
Điện thoại: (0269) 3 738 269
Email: ubndakpo@gialai.gov.vn
Fax: (0269) 3 738 275